Thế Vận Hội Thành Công Nhất Của Úc
Úc đã cử vận động viên đến hầu hết các Thế vận hội Olympic hiện đại ngoại trừ Thế vận hội mùa đông 1948 và cả Melbourne và Sydney đã tổ chức các sự kiện Olympic. Đây là một tóm tắt của các vận động viên đã bảo đảm các huân chương huy chương lớn nhất.
Ian Thorpe
Ian Thorpe là một vận động viên bơi lội tự do ghi lại kỷ lục và Olympian thành công nhất của Úc đã giành được năm huy chương vàng, ba bạc và một huy chương đồng. Tại Olympics đầu tiên của mình ở Sydney, Thorpe đã cạnh tranh trong giải pháp tự do đồng hồ 200 đặt thứ hai và tự do đồng hồ 400, nơi ông đã lập kỷ lục thế giới mới và giành được vàng. Anh đã trở thành Olympian thành công nhất tại 2000 Sydney Games với 5 huy chương. Thorpe tiếp tục thi đấu tại Thế vận hội 2004 Athens, nơi ông đã giành được giải đua "200 mét tự do" của thế kỷ ", thiết lập kỷ lục Olympic trên đường đi. Trong 2004, anh đã giành được hai vàng, một bạc và một đồng.
Dawn Fraser
Dawn Fraser là người phụ nữ Úc thành công nhất từng thi đấu trong Thế vận hội. Các vận động viên bơi lội từ Balmain, New South Wales đã giành được bốn huy chương vàng và bốn huy chương bạc, đã tổ chức các bản ghi 39 trong sự nghiệp của cô và đã giành được giải vô địch 100 mét của phụ nữ ba lần. Biên bản tự do của 100 meter được tổ chức cho 15 năm giữa tháng 12 1956 và tháng 1 1972. Trong tháng mười 1962 cô trở thành người phụ nữ đầu tiên bơi tự do 100 mét dưới một phút, với thời gian 58.9 giây. Tranh cãi bao quanh sự tham gia và hoạt động của cô tại Thế vận hội 1964 ở Tokyo; tuy nhiên, cùng năm đó, cô được đặt tên là người Úc của năm và được bầu làm thành viên của Order of the British Empire trong 1967.
Libby Trickett
Đã thi đấu trong ba Thế vận hội Olympic Libby Trickett đã mang về nhà bốn huy chương vàng, một huy chương bạc và hai huy chương đồng. Thế vận hội đầu tiên của cô là 2004 Athens Games, nơi cô giành được giải vô tuyến tự do 4 x 100 và đứng thứ ba trong giải pháp tự do đồng hồ 50. Bốn năm sau đó tại Bắc Kinh, cô đã giành được vàng trong mét đồng hồ 100 và 4 đồng hồ x 100 mét, bạc trong đồng hồ tự do 100 và đồng trong dây chuyền tự do 4 x 100. Trong 2009 Trickett đã tuyên bố nghỉ hưu của cô chỉ ở tuổi 24, nhưng cô trở lại môn thể thao và nhặt vàng tại London 2012.
Murray Rose
Trong 1956, Rose đại diện cho Úc tại Thế vận hội Melbourne và giành ba huy chương vàng, trở thành Olympian trẻ nhất từng được trao ba huy chương vàng trong một Thế vận hội Olympic duy nhất. Ông đã giành được vàng cho đồng hồ 400 và đồng hồ tự do 800 cũng như bộ chuyển tiếp tự do 4 x 200. Tại 1960 Rome Games, Rose đã giành được vàng, bạc và đồng trước khi theo đuổi sự nghiệp với tư cách diễn viên và nhà bình luận thể thao.
Betty Cuthbert
Đặt tên là 'cô gái vàng' của Thế vận hội Olympic Melbourne Betty Cuthbert được biết đến với phong cách chạy đặc biệt của cô và đã thiết lập hồ sơ trong đồng hồ 1956, sân 60, đồng hồ 100, sân 200 và sân 220. Trong 440 Cuthbert giành được vàng trong đồng hồ 1956, đồng hồ 100 và đồng hồ đo 200 x 4. Cuthbert tiếp tục cạnh tranh trong Thế vận hội Olympic 100 Rome và sau một thời gian nghỉ hưu ngắn, cô lại một lần nữa giành được vàng - lần này tại 1960 Commonwealth Games ở Perth. Hai năm sau, cô giành được đồng hồ 1962 tại 400 Tokyo Games với thời gian là 1964 giây. Tại 52.0 Sydney Games, Cuthbert đã giúp mang ngọn đuốc Olympic trong lễ khai mạc.
Leisel Jones
Tại chỉ 14 Leisel Jones đã được chọn cho đội Olympic cho 2000 Sydney Games và giành được hai huy chương bạc. Tại 2004 Athens Olympics, cô đã giành được huy chương vàng đầu tiên của mình trong giải pháp chuyển tiếp đồng hồ 4 x 100 đồng hồ đo cũng như bạc trong ống đồng 200 và đồng trong ống hút đồng hồ 100. Tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008 có hai vàng và bạc, trước khi giành huy chương vàng tại Thế vận hội Olympic 2012 London trong hệ thống tiếp vận đồng hồ 4 x 100. Sau khi giành được chín huy chương, gắn liền với Ian Thorpe, và củng cố mình là Olympian nữ Úc được trang trí nhiều nhất, Jones tuyên bố nghỉ hưu.
Petria Thomas
Ra mắt tại 1994 Commonwealth Games ở Victoria Petria Thomas đã giành được hai huy chương vàng ở dạng đồng hồ đo 100 và đồng hồ 4 × 100, trước khi thi đấu tại Thế vận hội 1996 Athens, nơi cô mang về nhà bạc. Tại 2000 Sydney Games, cô giành được hai huy chương bạc và một đồng cho những nỗ lực của mình, nhưng nó đã không được cho đến khi Thế vận hội 2004 Athens mà Thomas cuối cùng đã giành được vàng. Không cho phép tái tạo ba vai và tái tạo mắt cá chân để đứng theo cách của mình, Thomas đã giành được bướm đồng hồ 100 và bướm đồng hồ 200.
Grant Hackett
Tại đỉnh cao của sự nghiệp của mình Grant Hackett được coi là một trong những bơi lội khoảng cách lớn nhất trong lịch sử và vẫn bất khả chiến bại trong sự kiện mét 1500 từ 1996 để 2007. Tại 2000 Sydney Olympics Hackett đã giành được vàng trong giải pháp đồng hồ tự do 1500 và 4 x 200 đồng hồ tự do và tiếp tục được trao huy chương vàng tại 2004 Athens Olympics cho giải pháp tự do 1500. Ông cũng đã nhận được hai huy chương bạc năm đó. Tại 2008 Beijing Games Hackett từng là đội trưởng của đội bơi lội Úc và giành được cả huy chương bạc và đồng trong năm đó.
Shirley Strickland
Trong suốt cuộc đời cô, Shirley Strickland đã giành được nhiều huy chương Olympic hơn bất kỳ người Úc nào khác về thể thao. Sinh ra tại 1925, sự nghiệp của Strickland gần như bị trật bánh khi Thế chiến II phá vỡ các môn thể thao nữ ở Úc; Tuy nhiên, sau khi tham gia các nỗ lực chiến tranh, cô bắt đầu đào tạo cạnh tranh hơn như một Á hậu và tại Thế vận hội Olympic 1948, cô giành được hai huy chương bạc và đồng. Tại cuộc thi Olympics 1952 Helsinki, Strickland đã giành được giải vàng đầu tiên trong cuộc thi 80 với thời gian kỷ lục thế giới là 10.9 giây, cũng như giành được huy chương đồng. Cô một lần nữa giành được rào cản mét 80 tại Thế vận hội Olympic 1956 Melbourne và cũng giành được vàng với đội tiếp sức đồng hồ 4 × 100 của Úc.
Shane Gould
Có lẽ sự ra đời của Shane Gould trong cuộc thi 1956 Melbourne Games đã xác định số phận Olympic của cô và mặc dù sự sống bơi lội ngắn ngủi của cô vẫn còn là một trong những Olympians nổi tiếng nhất nước Úc. Sự xuất hiện Olympic duy nhất của Gould là trong suốt cuộc thi 1972 Munich, nơi cô đã giành được năm huy chương bao gồm ba huy chương vàng, một bạc và một đồng. Đối với mỗi huy chương vàng mà cô giành được trong 1972, cô cũng đặt thời gian kỷ lục thế giới trong sự kiện đó. Gould cũng là người duy nhất đã tổ chức mọi kỷ lục tự do trên thế giới đồng thời và trở thành vận động viên bơi lội đầu tiên giành huy chương trong năm sự kiện cá nhân trong cùng Thế vận hội. Chỉ mười bảy tuổi Gould đã nghỉ hưu như một vận động viên bơi lội cạnh tranh.